1. "Sử Dụng Tâm"
(Hỏi) Bạch Thầy, Thầy giảng giúp con hiểu thêm về “Sử Dụng Tâm”. Con cảm ơn thầy ạ.
- Tâm vốn biết Pháp, bản chất của tâm (citta) là biết. Cho nên, những cụm từ"thận trọng, chú tâm, quan sát", "trở về, trọn vẹn, tỉnh thức", "trong lành, định tĩnh, sáng suốt", "rỗng rang, lặng lẽ, trong sáng", "tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác"hay "Giới Định Tuệ", "Bát Chánh Đạo"... đều chỉ nguyên lý sử dụng tâm.
Tâm tự nó biết ứng ra khi gặp duyên. Nếu tâm tự ứng ra thì đúng, còn nếu mình sử dụng theo ý mình thì dễ bị rơi vào chủ quan của bản ngã.
Thường các phương pháp tu người ta quá nặng về sử dụng tâm như thế này, như thế kia theo một khuôn khổ chế định làm cho tâm mất đi sự bén nhạy của nó, thật ra Tâm vốn tự biết sử dụng. Khi muốn sử dụng tâm như thế này như thế kia, thường bị rơi vào bản ngã. Cái biết tự nhiên biết, còn khi muốn biết thì đã rơi vào khái niệm tục đế rồi.
Khi rơi vào tục đế liền có hai hướng: Một là thiện, hai là bất thiện. Trong tục đế dụng tâm sao cho đúng tốt là thiện. Trong Chân Đế tâm sẽ tự ứng ra thấy biết thực tánh một cách tự nhiên, còn nếu cố ý muốn biết thực tánh như thế nào thì liền trở thành khái niệm tục đế, không còn chân đế nữa. Vì vậy đức Phật không dạy sử dụng tâm theo tư ý mà chỉ dạy tinh tấn chánh niệm tỉnh giác để biết tâm thôi.
Trong tâm có 2 phần là tánh biết và tướng biết. Tướng biết chỉ biết đối tượng của nó và mỗi tướng biết chỉ xuất hiện trên đối tượng của nó nên 2 tướng biết không thể biết nhau. Vì vậy, tướng biết chỉ có thể niệm thân và thọ trên thân chứ không thể niệm tâm và pháp, nhưng tánh biết thì có thể biết được tất cả tướng của tâm. Ai niệm tâm thấu đáo đều thấy rõ điều này. Khi tướng biết là tham, sân, si… sinh diệt thế nào tánh biết đều biết chúng như vậy...
Mắt tai mũi lưỡi thân ý biểu hiện thành 121 loại tướng biết. Mỗi tướng biết đều không biết nhau nhưng tánh biết biết được mọi tướng biết sinh diệt thế nào. Chỉ khi tướng biết thanh tịnh gọi là tri kiến thanh tịnh mới nhận ra tánh biết mà thôi. Còn khi tri kiến không thanh tịnh thì khó nhận ra tánh biết.
Có người đến bạch Đức Thế Tôn rằng, nếu chế ngự được tất cả ý thì sẽ không có tất cả khổ, Đức Phật dạy:
Không nên chế ngự ý,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Chớ có chế ngự ý,
Nếu tự chủ đạt được.
Chỗ nào ác pháp khởi,
Chỗ ấy chế ngự ý.
Tâm vốn thấy Pháp và biết tự ứng một cách rất chính xác, tự nhiên và trong sáng, nhưng nhiều khi do cái ngã lại muốn tâm phải được sử dụng như thế này, thế kia mà sinh ra phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử.
2. Niệm Tâm
Thật ra, niệm tâm tức là tâm như thế nào chỉ cần trọn vẹn tỉnh thức biết tâm như vậy. Từ sự thấy biết đó mọi vi tế như sự sinh diệt, nguyên nhân, hậu quả, vị ngọt, sự nguy hại sẽ tự trình hiện, không cần dụng ý tìm kiếm theo lập trình của khái niệm. Cứ quan sát một cách tự nhiên, vô tâm (không cố ý) thì sẽ thấy ra mọi sự một cách vi tế mà không cần nỗ lực tìm kiếm. Khởi tâm tìm kiếm là đã có thái độ chủ quan sai lạc, tìm kiếm đối tượng đã được khái niệm hoá lại càng sai hơn, làm sao thấy được sự thật như nó đang là.
Khi tâm trong sáng tự nhiên thấy ra sự thật chứ không phải cố tìm, tức do chánh niệm tỉnh giác trong sáng vừa đủ bỗng nhiên bật ra soi rõ mọi sự, nên mới gọi là hoát nhiên, bất chợt. Như Tỳ kheo ni Pacatara thấy nước rửa chân liền giác ngộ, Ngài Ananda buông mọi nỗ lực, nằm xuống ngủ thì bỗng chứng quả Alahán.
Thấy biết tự nhiên là tri kiến, còn muốn biết chỉ tạo sở tri, có những pháp tu cứ muốn biết, muốn được nên càng tu càng tham lam thêm mà thôi. Giới Định Tuệ chính là bình tâm mà thấy, bình tâm chính là không có ý đồ gì cả, trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe… thì còn tìm kiếm này nọ làm chi! Tìm kiếm chỉ làm cho tâm mệt mỏi căng thẳng và sự mệt mỏi căng thẳng đó làm mất sự bén nhạy, nhu nhuyến, uyển chuyển vốn có của tâm để rồi trở nên khô cứng.
Tâm là bén nhạy nhất, không có cái gì nhanh hơn tâm, môi trường tâm vô cùng rộng lớn, có thể bao trùm cả vũ trụ. Vì chấp vào cái thấy cái nghe, khái niệm, quan niệm này kia mới mất đi tính vô hạn đó. Khi buông ra mọi kiến thức giới hạn của kinh nghiệm căn trần thì tâm liền nhanh như chớp, vì nó không còn bị giới hạn bởi thời gian không gian nữa, có thể đồng thời chu biến khắp mọi nơi, nên tâm đức Phật có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới.
Ý đồ tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận để chứng ngộ chân đế là cực kỳ sai lầm. Nỗ lực thực hiện những ý đồ tích cực đó chỉ đúng trong tục đế mà thôi, như tập thể dục, học lái xe, khám chữa bệnh v.v... thì được. Còn trong chân đế không có tích cực miên mật gì cả chỉ ngay đó mà thấy, cứ để bình thường sẽ thấy, nếu cố tích cực miên mật là mất liền. Cho nên để thấy Sự Thật thì không cần tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận gì cả mà chỉ cần nghiêm túc, nhiệt tâm thì mới có thể trọn vẹn tỉnh thức nơi thực tại được.
Trích ghi theo Trà Đạo Bửu Long ngày 20 tháng 9 năm 2016
(Hỏi) Bạch Thầy, Thầy giảng giúp con hiểu thêm về “Sử Dụng Tâm”. Con cảm ơn thầy ạ.
- Tâm vốn biết Pháp, bản chất của tâm (citta) là biết. Cho nên, những cụm từ"thận trọng, chú tâm, quan sát", "trở về, trọn vẹn, tỉnh thức", "trong lành, định tĩnh, sáng suốt", "rỗng rang, lặng lẽ, trong sáng", "tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác"hay "Giới Định Tuệ", "Bát Chánh Đạo"... đều chỉ nguyên lý sử dụng tâm.
Tâm tự nó biết ứng ra khi gặp duyên. Nếu tâm tự ứng ra thì đúng, còn nếu mình sử dụng theo ý mình thì dễ bị rơi vào chủ quan của bản ngã.
Thường các phương pháp tu người ta quá nặng về sử dụng tâm như thế này, như thế kia theo một khuôn khổ chế định làm cho tâm mất đi sự bén nhạy của nó, thật ra Tâm vốn tự biết sử dụng. Khi muốn sử dụng tâm như thế này như thế kia, thường bị rơi vào bản ngã. Cái biết tự nhiên biết, còn khi muốn biết thì đã rơi vào khái niệm tục đế rồi.
Khi rơi vào tục đế liền có hai hướng: Một là thiện, hai là bất thiện. Trong tục đế dụng tâm sao cho đúng tốt là thiện. Trong Chân Đế tâm sẽ tự ứng ra thấy biết thực tánh một cách tự nhiên, còn nếu cố ý muốn biết thực tánh như thế nào thì liền trở thành khái niệm tục đế, không còn chân đế nữa. Vì vậy đức Phật không dạy sử dụng tâm theo tư ý mà chỉ dạy tinh tấn chánh niệm tỉnh giác để biết tâm thôi.
Trong tâm có 2 phần là tánh biết và tướng biết. Tướng biết chỉ biết đối tượng của nó và mỗi tướng biết chỉ xuất hiện trên đối tượng của nó nên 2 tướng biết không thể biết nhau. Vì vậy, tướng biết chỉ có thể niệm thân và thọ trên thân chứ không thể niệm tâm và pháp, nhưng tánh biết thì có thể biết được tất cả tướng của tâm. Ai niệm tâm thấu đáo đều thấy rõ điều này. Khi tướng biết là tham, sân, si… sinh diệt thế nào tánh biết đều biết chúng như vậy...
Mắt tai mũi lưỡi thân ý biểu hiện thành 121 loại tướng biết. Mỗi tướng biết đều không biết nhau nhưng tánh biết biết được mọi tướng biết sinh diệt thế nào. Chỉ khi tướng biết thanh tịnh gọi là tri kiến thanh tịnh mới nhận ra tánh biết mà thôi. Còn khi tri kiến không thanh tịnh thì khó nhận ra tánh biết.
Có người đến bạch Đức Thế Tôn rằng, nếu chế ngự được tất cả ý thì sẽ không có tất cả khổ, Đức Phật dạy:
Không nên chế ngự ý,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Chớ có chế ngự ý,
Nếu tự chủ đạt được.
Chỗ nào ác pháp khởi,
Chỗ ấy chế ngự ý.
Tâm vốn thấy Pháp và biết tự ứng một cách rất chính xác, tự nhiên và trong sáng, nhưng nhiều khi do cái ngã lại muốn tâm phải được sử dụng như thế này, thế kia mà sinh ra phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử.
2. Niệm Tâm
(Hỏi) Thưa Thầy, con có nghe một trường phái niệm Tâm dạy rằng, khi Tâm mình khởi một ý niệm, một cảm xúc hay bất cứ một điều gì thì cần tìm hiểu động cơ của việc phát xuất đó. Nhưng con không biết tác dụng của việc tìm hiểu mỗi ý niệm như vậy thì có rơi vào lập trình tư tưởng không thưa Thầy?
Thật ra, niệm tâm tức là tâm như thế nào chỉ cần trọn vẹn tỉnh thức biết tâm như vậy. Từ sự thấy biết đó mọi vi tế như sự sinh diệt, nguyên nhân, hậu quả, vị ngọt, sự nguy hại sẽ tự trình hiện, không cần dụng ý tìm kiếm theo lập trình của khái niệm. Cứ quan sát một cách tự nhiên, vô tâm (không cố ý) thì sẽ thấy ra mọi sự một cách vi tế mà không cần nỗ lực tìm kiếm. Khởi tâm tìm kiếm là đã có thái độ chủ quan sai lạc, tìm kiếm đối tượng đã được khái niệm hoá lại càng sai hơn, làm sao thấy được sự thật như nó đang là.
Khi tâm trong sáng tự nhiên thấy ra sự thật chứ không phải cố tìm, tức do chánh niệm tỉnh giác trong sáng vừa đủ bỗng nhiên bật ra soi rõ mọi sự, nên mới gọi là hoát nhiên, bất chợt. Như Tỳ kheo ni Pacatara thấy nước rửa chân liền giác ngộ, Ngài Ananda buông mọi nỗ lực, nằm xuống ngủ thì bỗng chứng quả Alahán.
Thấy biết tự nhiên là tri kiến, còn muốn biết chỉ tạo sở tri, có những pháp tu cứ muốn biết, muốn được nên càng tu càng tham lam thêm mà thôi. Giới Định Tuệ chính là bình tâm mà thấy, bình tâm chính là không có ý đồ gì cả, trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe… thì còn tìm kiếm này nọ làm chi! Tìm kiếm chỉ làm cho tâm mệt mỏi căng thẳng và sự mệt mỏi căng thẳng đó làm mất sự bén nhạy, nhu nhuyến, uyển chuyển vốn có của tâm để rồi trở nên khô cứng.
Tâm là bén nhạy nhất, không có cái gì nhanh hơn tâm, môi trường tâm vô cùng rộng lớn, có thể bao trùm cả vũ trụ. Vì chấp vào cái thấy cái nghe, khái niệm, quan niệm này kia mới mất đi tính vô hạn đó. Khi buông ra mọi kiến thức giới hạn của kinh nghiệm căn trần thì tâm liền nhanh như chớp, vì nó không còn bị giới hạn bởi thời gian không gian nữa, có thể đồng thời chu biến khắp mọi nơi, nên tâm đức Phật có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới.
Ý đồ tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận để chứng ngộ chân đế là cực kỳ sai lầm. Nỗ lực thực hiện những ý đồ tích cực đó chỉ đúng trong tục đế mà thôi, như tập thể dục, học lái xe, khám chữa bệnh v.v... thì được. Còn trong chân đế không có tích cực miên mật gì cả chỉ ngay đó mà thấy, cứ để bình thường sẽ thấy, nếu cố tích cực miên mật là mất liền. Cho nên để thấy Sự Thật thì không cần tích cực, miên mật, tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận gì cả mà chỉ cần nghiêm túc, nhiệt tâm thì mới có thể trọn vẹn tỉnh thức nơi thực tại được.
Trích ghi theo Trà Đạo Bửu Long ngày 20 tháng 9 năm 2016