Mục Lục
| ||
THERAVĀDA PHẬT-GIÁO-NGUYÊN-THUỶ Phật-Lịch 2557 DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTA KINH CHUYỂN-PHÁP-LUÂN Tỳ-Khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita) Dhammapaṇṇākāra Món Quà Pháp Kính biếu: Nhân dịp ngày lễ Āsāḷhapūjā Rằm Tháng Sáu gọi là Ngày Đức-Pháp-Bảo, con xin kính dâng bản dịch bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân có phần giải thích tóm tắt nầy gọi là “Pháp thí”. Con xin thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ông bà, Cha mẹ, Thầy tổ và những bậc ân nhân từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cùng tất cả chúng-sinh nhất là phụ thân, mẫu thân, bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu,… Kính xin quý vị phát sinh thiện tâm hoan hỷ phần pháp thí thanh cao này, cầu mong cho tất cả quý vị thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài, nhất là tạo duyên lành để mong giải thoát khổ tư sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. Phật-Lịch 2557/2013 Chùa Tổ Bửu-Long Dhammanandā Upāsikā Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, Đức A-ra-hán, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác ấy. Bài kệ lễ bái nơi Động tâm Isipatana Migadāya nơi Đức-Phật GOTAMA thuyết bài kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên. Saṃvejanīyathānaṃ taṃ, idha cakkaṃ pavattitaṃ. Garuṃ karomi pūjemi, āgantvāna idāni’haṃ. Hotu me kusalaṃ etaṃ, Saccadassanakāranaṃ. Nơi đây Đức-Phật Chuyển-Pháp-Luân, Gọi nơi xăng-vê-gá động tâm. Nay con có duyên lành đến đây, Xin thành kính lễ bái cúng dường. Do nhờ phước thiện thanh cao nầy, Làm duyên lành chứng ngộ chân-lý. Lời Ngỏ Ba Ngày Lịch Sử Trọng Đại Trong Phật-Giáo Theo truyền thồng Phật-Giáo-Nguyên-Thuỷ có 3 ngày lịch sử trọng đại như sau: 1- Ngày rằm tháng tư (âm-lịch) có 3 sự kiện lịch sử trọng đại trùng hợp theo thời gian khác nhau: * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đản-sinh kiếp chót, * Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, * Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn. 2- Ngày rằm tháng sáu (âm-lịch), Đức-Phật Gotama lần đầu tiên thuyết pháp bài kinhDham-macakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân, 3- Ngày rằm tháng giêng (âm-lịch), Đại-hội chư Thánh-A-ra-hán 1.250 vị lần đầu. 1- Ngày rằm tháng tư (âm-lịch) có 3 sự kiện lịch sử trọng đại theo thời gian như sau: * Ngày rằm tháng tư, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đản-sinh kiếp chót, tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc phần đất nước Nepal), * Ngày rằm tháng tư, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha tròn 35 tuổi, chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại khu rừng Uruveḷā, (nay gọi là Bodhgayā, nước Ấn Độ). Đức-Phật Gotama có sự tinh tấn không ngừng ngày đêm thuyết pháp tế độ chúng sinh: nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên ròng rã tròn 45 năm. * Ngày rằm tháng tư, Đức-Phật Gotama tròn 80 tuổi, tịch diệt Niết-bàn gọi là Khandha-parinibbāna: Ngũ-uẩn-Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, tại khu rừng Kusinārā (nước Ấn Độ). 2- Ngày rằm tháng sáu (âm-lịch), tròn đúng 2 tháng sau khi trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, chấp thuận lời thỉnh cầu của vị Đại-Phạm-thiên Sahampati, Đức-Phật Gotamangự đi đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī, nơi có nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji. Vào buổi chiều ngày rằm tháng 6 ấy, mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng mọc hướng Đông, Đức-Phật Gotama lần đầu tiên thuyết pháp bài kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển- Pháp-Luân, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu ấy. Sau khi nghe Đức-Phật Gotama thuyết giảng xong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này xong, nhóm 5 tỳ-khưu phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Đức-Phật. Trong nhóm 5 tỳ-khưu ấy, chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña là vị đầu tiên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, có tên mới là “Aññāsikoṇḍañña”. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành Sa-di, tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức-Phật. Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng: “Ehi bhikkhū! Svākkhātodhammo, cara brahmacariyaṃ sammādukkhassa antakariyāya.” Thật kỳ diệu thay! Khi Đức-Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ của Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo là một vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu được thành tựu do quả phước thần thông. Vị Tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị tỳ-khưu có 60 hạ. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña trở thành vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama. Ngay khi ấy, Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảotrọn vẹn 3 ngôi Tam-Bảo đầu tiên xuất hiện trên thế gian vào ngày rằm tháng 6 âm-lịch. 3- Ngày rằm tháng giêng (âm-lịch), tròn đúng 9 tháng sau khi trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama. Trong khoảng thời gian 9 tháng, Đức-Phật ngự đi mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng sinh: nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, có số chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu; có số chứng đắc đến Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-Nhất-lai; có số chứng đắc đến Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-Bất-lai; có số chứng đắc đến A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Trở thành Thánh-nhân thấp hoặc cao, bậc nào là hoàn toàn tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh Ba-la-mật và nhất là tuỳ theo năng lực của 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị Thánh-thanh-văn đệ-tử. Có số Thánh-thanh-văn đệ-tử xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu. Đức-Phật xem xét về tiền kiếp của mỗi vị Thánh-nhân nếu đã từng phát nguyện xuất gia theo cách gọi “Ehi Bhikkhu” thì Đức-Phật cho phép xuất gia theo cách Ehi Bhikkhūpasampadā. Theo cách này, Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ mà dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahma-cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”
- Này con hãy lại đây! Con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên thực hành phạm-hạnh cao thượng đúng đắn dẫn đến chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán cuối cùng giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới. Nếu vị Thánh-nhân nào không từng phát nguyện xuất gia theo cách gọi “Ehi Bhikkhu” thì Đức-Phật không gọi “Ehi Bhikkhu”được. Vào ngày rằm tháng giêng (9 tháng sau khi trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác),Đức-Phật Gotama đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, có 1.250 vị Thánh-A-ra-hán, mỗi vị đều phát sinh ý nghĩ giống nhau rằng: “Ta nên đến hầu Đức-Thế-Tôn tại ngôi chùa Veḷuvana, vào ngày rằm tháng giêng này.” Đại-hội chư Thánh-A-ra-hán lần đầu này gọi là “Sāvakasannipāta” có đủ 4 chi: 1- Ngày rằm tháng giêng, 2- Chư Thánh-A-ra-hán gồm có 1.250 vị, mỗi vị đều tự đến hầu Đức-Thế-Tôn mà không có báo tin cho nhau biết. (1.250 vị Thánh-A-ra-hán gồm có nhóm 1.000 vị của 3 huynh đệ Kassapa và nhóm 250 vị của 2 vị Tối-thượng-Thanh-văn: Ngài Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna). 3- Chư Thánh-A-ra-hán gồm có 1.250 vị chỉ xuất gia theo cách Ehi Bhikkhūpasampadā với Đức-Phật mà thôi. 4- Chư Thánh-A-ra-hán gồm có 1.250 vị đều chứng đắc lục-thông. Khi ấy Đức-Phật thuyết dạy ovādapatimokkha. Ba ngày lịch-sử trọng-đại của Phật-giáo này trở nên 3 ngày Đại-lễ quan trọng trong Phật-giáo. Cho nên hằng năm, theo truyền thống Phật-giáo, các nước có Phật-giáo, mỗi chùa, mỗi nhà, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất gia hoặc hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều làm lễ kỷ niệm rất long trọng với mọi hình thức, để tỏ lòng tôn kính nơi ngôi Tam-Bảo, bởi vì 3 ngày Đại-lễ quan trọng này có ý nghĩa đặc biệt: * Ngày rằm tháng tư là ngày Đức-Phật-Bảo, * Ngày rằm tháng sáu là ngày Đức-Pháp-Bảo, *Ngày rằm tháng giêng là ngày Đức-Tăng-Bảo. Rằm tháng sáu, Phật-Lịch 2557/2013 Chùa Tổ Bửu-Long, Q.9, Tp. Hồ-Chí-Minh. Soạn-giả: Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita) |
[ Ðầu trang ][ Trở về trang Thư Viện ]
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTA
(KHAI KINH CHUYỂN-PHÁP-LUÂN)
Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnaṃ,
Isipatana nāmake,
Migadāye dhammavaraṃ,
yaṃ taṃ nibbānapāpakaṃ.
Sahampati nāmakena,
mahābrahmena yācito.
Catusaccaṃ pakāsento,
Lokanātho adesayi.
Nanditaṃ sabbavedehi,
sabbasampatti sādhakaṃ.
Sabbalokahitatthāya,
Dhammcakkaṃ bhaṇāma he.
Dhammacakkappavattanasutta([1])
Evaṃ me sutaṃ, ekaṃ samayaṃ Bhagavā Bārāṇasiyaṃ viharati, Isipatane migadāye. Tatra kho Bhagavā pañcavaggiye bhikkhū āmantesi.
Dveme bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā. Katame dve?
* Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyogo hīno gammo pothujjaniko anariyo anattha-saṃhito,
* Yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariyo anatthasaṃhito.
Ete kho bhikkhave, ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
Katamā ca sā bhikkhave, majjhimā paṭipadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
Seyyathidaṃ: Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā, sammākammanto, sammā-ājivo, sammāvāyamo, sammāsati, sammāsamādhi.
Ayaṃ kho sā bhikkhave, majjhimā paṭipadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattati.
*1- Idaṃ kho pana bhikkhave, dukkhaṃ ariyasaccaṃ, jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, byādhipi dukkho, maraṇaṃpi dukkhaṃ, appiyehi sampayogo dukkho, piyehi vippayogo dukkho, yampicchaṃ na labhati, tampi dukkhaṃ, saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.
*2- Idaṃ kho pana bhikkhave, dukkha-samudayaṃ ariyasaccaṃ, yāyaṃ taṇhā ponobbhavikā nandirāgasahagatā tatratatrā-bhinandinī. Seyyathidaṃ: kāmataṇhā, bhava-taṇhā, vibhavataṇhā.
*3- Idaṃ kho pana bhikkhave, dukkha-nirodhaṃ ariyasaccaṃ, yo tassāyeva taṇhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo.
*4- Idaṃ kho pana bhikkhave, dukkha-nirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ, ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo. Seyyathidaṃ: sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā, sammākammanto, sammā-ājivo, sammāvāyamo, sammāsati, sammāsamādhi.
1.1- “Idaṃ dukkhaṃ ariyasaccan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
1.2- “Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesudhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
1.3- “Taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariya-saccaṃ pariññātan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
2.1-“Idaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
2.2- “Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabban”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
2.3- “Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahīnan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
3.1- “Idaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
3.2- “Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabban”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
3.3- “Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikatan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
4.1-“Idaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
4.2-“Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodha-gāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabban”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
4.3- “Taṃ kho panidaṃ dukkhanirodha-gāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitan”ti me bhikkhave, pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.
Yāvakīvañca me bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvā’haṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya “anuttaraṃ sammā-sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.
Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athā’haṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya “anuttaraṃ sammā-sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’ti.
Idamavoca Bhagavā, attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Imasmiṃ ca pana veyyākaraṇasmiṃ bhañña-māne āyasmato Koṇḍaññassa virajaṃ vītamalaṃ
dhammacakkhuṃ udapādi “yaṃ kiñci samudaya-dhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.
Pavattite ca pana Bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātumahārājikā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭi-vattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Cātumahārājikānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tāvatiṃsā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭi-vattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Tāvatiṃsānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā yāmā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ BhagavatāBārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Yāmānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā tusitā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Tusitānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā nimmānaratī devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭi-vattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
* Nimmanaratīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā paranimmitavasavattī devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
*Paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā brahmakāyikā devā saddamanussāvesuṃ “Etaṃ Bhagavatā Bārāṇasiyaṃ Isipatane migadāye anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattitaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇema vā brahmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmin”ti.
Itiha tena khaṇena tena layena tena muhuttena yāva brahmalokā saddo abbhuggacchi.
Ayañca dasasahassilokadhātu saṃkampi sampakampi sampavedhi. Appamāṇo ca uḷāro obhāso loke pāturahosi atikkamma devānaṃ devānubhāvanti.
Atha kho Bhagavā imaṃ udānaṃ udānesi
“Aññāsi vata bho Koṇḍañño! Aññāsi vata bho Koṇḍañño!” ti. Iti hidaṃ āyasmato Koṇḍaññassa “Aññāsikoṇḍañño” tveva nāmaṃ ahosī’ti.
Atha kho āyasmā Aññāsikoṇḍañño diṭṭha-dhammo viditadhammo pariyogāḷhadhammotiṇṇavicikiccho vigatakathaṃkatho vesārajjapatto aparappaccayo satthusāsane Bhagavantaṃ etadavoca.
“Labheyyā’haṃ Bhante, Bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan”ti.
“Ehi bhikkhū”ti Bhagavā avoca,“Svākkhāto dhammo, cara brahmacariyaṃ sammādukkhassa antakiriyāyā”ti
Sāva tassa āyasmato upasampadā ahosī’ti.
(Dhammacakkappavattanasuttaṃ niṭṭhitaṃ)
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, Đức A-ra-hán, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.
Bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân
(Dhammacakkappavattanasutta)
Ý Nghĩa Kệ Khai Kinh Chuyển-Pháp-Luân
“Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnaṃ...”
Vị Đại-Phạm-thiên Sa-ham-pa-ti,
Thỉnh cầu Đức-Phật, thuyết pháp độ sinh,
Đức-Phật đại bi nhận lời cầu thỉnh
Thuyết pháp giảng giải pháp tứ Thánh-đế,
Chánh pháp cao thượng chứng ngộ Niết-bàn
Tế độ chúng sinh, nhóm năm tỳ-khưu
Tại khu rừng rậm, nơi phóng sinh nai
Tên gọi là I-si-pa-ta-na,
Mong sự lợi ích cho toàn chúng-sinh,
Lắng nghe bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này,
Thành tựu kết quả cõi người, cõi trời,
Niết-bàn tịch tịnh an lạc tuyệt đối
Chúng tôi tụng kinh Chuyển-Pháp-Luân ấy.
Ý Nghĩa Bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân
Lời Ngài Đại Đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng-Lão Mahākassapa rằng:
- “Evaṃ me sutaṃ…”
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā-kassapa khả kính, Con là Ānanda được nghe bàikinh Chuyển-Pháp-Luân từ Đức-Thế-Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai, gọi là Isipatana, trước kia chư Phật-Độc-Giác thường ngự xuống. Tại đây, Đức-Thế-Tôn gọi nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahā-nāma và Ngài Đại-đức Assaji mà dạy rằng:
Hai Pháp Thấp Hèn (Dve antā)
- Này chư Tỳ-khưu! Có 2 pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà người xuất gia không nên hành.
Hai pháp ấy như thế nào?
* Một là việc thường thụ hưởng khoái lạc trong ngũ-dục do tâm tham-ái hợp với thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời, không phải là pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại lợi ích an lạc,
* Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân và có đoạn-kiến, thuộc pháp-hành-khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải là pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại lợi ích an lạc.
Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimapaṭipadā)
- Này chư Tỳ-khưu! Không thiên về hai biên kiến ấy, Như-Lai đã hành theo pháp-hành-trung-đạo, nên đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Thế nào gọi là pháp-hành-trung-đạo mà Như-Lai đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo đó chính là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm,
chánh-định.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như-Lai đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế với trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh, đã làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Tứ Thánh-Đế
1- Khổ-Thánh-Đế (Dukkha ariyasacca)
- Này chư Tỳ-khưu! Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là:
* Tái sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ.
* Phải gần gũi, thân cận với người không thương yêu là khổ.
* Phải xa lìa người thương yêu là khổ.
* Mong muốn đừng có sinh, đừng có già, đừng có bệnh, đừng có chết… mà không thể nào được như ý là khổ.
Tóm lại, chấp thủ trong ngũ-uẩn do tâm tham-ái và tà-kiến là khổ.
2- Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế (Dukkhasamudaya ariyasacca)
- Này chư Tỳ-khưu! Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là tham-ái là nhân dắt dẫn tái sinh, hợp với tham muốn, hài lòng, say mê trong các đối tượng,
đắm say trong kiếp sống.
Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế ấy là:
* Dục-ái (kāmataṇhā: Tham-ái trong 6 đối tượng ái: (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái).
* Hữu-ái (bhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối tượng ái hợp với thường-kiến, hoặc tham-ái trong 3 cõi (dục-giới, sắc-giới và vô-sắc-giới).
* Phi-hữu-ái (vibhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối tượng ái hợp với đoạn-kiến.
3- Diệt-Khổ-Thánh-Đế (Dukkhanirodha ariyasacca)
- Này chư Tỳ-khưu! Diệt-Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Niết-bàn là pháp diệt-đoạn-tuyệt mọi dục vọng do tâm tham-ái ấy không còn dư sót bằng 4 Thánh-đạo-tuệ, xả ly, từ bỏ chấp thủ trong ngũ-uẩn, giải thoát khổ, không còn luyến ái, không còn dính mắc.
4- Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
(Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca)
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế1- Tam-Tuệ-Luân Trong Khổ-Thánh-Đế
1.1- Trí-Tuệ-Học Biết Khổ-Thánh-Đế (Saccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ thật-tánh Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ (āloka) diệt màn vô-minh che án Khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp Khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh tất cả các pháp, sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới, ngoại trừ tâm tham-ái ra (vì tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế), đều là Khổ-Thánh-đế”.
1.2- Trí-Tuệ Hành Phận Sự Biết Khổ-Thánh-Đế (Kiccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ…, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ- minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh các pháp (danh-pháp, sắc-pháp) Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên biết rõ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới”.
1.3- Trí-Tuệ Thành Hoàn Thành Xong Phận Sự Biết Khổ-Thánh-Đế (Katañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ…, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh tất cả các pháp (danh-pháp, sắc-pháp) Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên biết, thì đã biết rõ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi”.
2- Tam-Tuệ-Luân Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
2.1- Trí-Tuệ Học Biết Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế (Saccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn thấy rõ tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ thật-tánh ba loại tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu suốt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ diệt màn vô-minh che án Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh 3 loại tham-ái ấy là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế”.
2.2- Trí-Tuệ Hành Phận Sự Diệt Nhân-Sinh Khổ-Thánh-Đế (Kiccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ…, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh ba loại tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên diệt bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới”.
2.3- Trí-Tuệ Thành Hoàn Thành Phận Sự Diệt Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế (Katañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ …, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ- minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh ba loại tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên diệt, thì đã diệt-đoạn-tuyệt bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi”.
3- Tam-Tuệ-Luân Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế
3.1- Trí-Tuệ Học Biết Diệt-Khổ-Thánh-Đế (Saccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh Niết-bàn đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt-Khổ- Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ diệt màn vô-minh che án Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Diệt-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn là pháp Diệt- Khổ-Thánh-đế.”
3.2- Trí-Tuệ Hành Phận Sự Chứng Ngộ Diệt-Khổ-Thánh-Đế (Kiccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ …, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ- minh,... ánh sáng trí-tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Diệt-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn là Diệt-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới”.
3.3- Trí-Tuệ Thành Hòan Thành Phận Sự Chứng Ngộ Diệt-Khổ-Thánh-Đế (Katañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ…, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi pháp Diệt-Khổ-Thánh-đế,mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Niết-bàn là Diệt-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi”.
4- Tam-Tuệ-Luân Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
4.1- Trí-Tuệ-Học Biết Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt- Khổ-Thánh-Đế (Saccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn thấy rõ Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh của chánh-kiến, chánh-tư-duy… đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu suốt Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ diệt màn vô-minh che án Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành-bát-chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế.”
4.2- Trí-Tuệ Hành Phận Sự Tiến Hành Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế (Kiccañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu, tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ …, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ- minh,... ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: “Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới”.
4. 3- Trí-Tuệ Thành Hoàn Thành Xong Phận Sự Tiến Hành Pháp-Hành Dẫn Đến Pháp-Hành-Diệt-Khổ Thánh-Đế (Katañāṇa)
- Này chư Tỳ-khưu! Tuệ nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ…, trí-tuệ sáng suốt..., tuệ- minh..., ánh sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai, trong mọi Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế, mà từ trước khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi”.
Vai Trò Quan Trọng Của Tam-Tuệ-Luân
- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đếtheo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh chưa phát sinh đến với Như-Lai,
- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy Như-Lai chưa truyền dạy rằng: “Như-Lai chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh: nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương và phạm-thiên cả thảy”.
- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đếtheo tam-tuệ-luân, (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.
- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh: nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương và phạm-thiên cả thảy”.
Trí-Tuệ-Quán-Triệt (Paccavekkhaṇañāṇa)
Trí-tuệ quán-triệt đã phát sinh đến với Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán-Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái sinh kiếp nào nữa”.
Trưởng Lão Koṇḍañña Chứng Ngộ Chân-Lý Tứ Thánh-Đế
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này xong, nhóm 5 tỳ-khưu phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức-Phật.
Trong khi Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh văn xuôi này xong, thì Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña đã phát sinh pháp-nhãn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ, tâm không còn ô nhiễm bởi phiền não, tà-kiến, hoài-nghi nữa, nên Ngài biết rõ ràng, chắc chắn rằng: “Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái-sinh, thì tất cả pháp ấy đều có trạng-thái-diệt”.
Toàn Thể Chư-Thiên, Phạm-Thiên Tán-Dương Ca-Tụng
Khi Đức-Thế-Tôn thuyết giảng kinh Chuyển-Pháp-Luân vừa xong, chư-thiên trên địa cầuđồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Bārāṇasī, chưa từng có Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”
* Chư-thiên cõi tứ Đại-Thiên-vương nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên địa cầu, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân vô thượng… ”
* Chư-thiên cõi Tam-thập-Tam-thiên nghe lời
tán dương ca tụng của chư-thiên cõi tứ Đại-Thiên-vương cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân ...”
* Chư-thiên cõi Dạ-Ma-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên cõi Tam-thập-Tam-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân ...”
* Chư-thiên cõi Đâu-suất-đà-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên cõi Dạ-ma-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân ...”
* Chư-thiên cõi Hóa-lạc-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên cõi Đâu-suất-đà-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân ...”
* Chư-thiên cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên cõi Hóa-lạc-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân ...”
* Chư phạm-thiên cõi trời sắc-giới nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Bārāṇasī, chưa từng có Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”
Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay sát-na ấy, lời tán dương ca tụng lên đến cõi sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh là “Sắc-cứu-cánh-thiên” (Akaniṭṭhā), mười ngàn thế giới này đều rung chuyển, rung động, ánh sáng hào quang của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tỏa rộng vô biên khắp cùng toàn thế giới, hơn hẳn oai lực chư-thiên, phạm-thiên cả thảy.
Ngài Đại-Trưởng-Lão Koṇḍañna Tên Là Aññāsikoṇḍañña
Khi Ngài Đại-Trưởng-Lão Koṇḍañña chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, Đức-Thế-Tôn hoan hỷ tự thốt lên cho toàn thế giới biết rằng:
- Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế rồi!
- Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế rồi!
Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña được gọi tên là Aññāsikoṇḍañña (Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña đã chứng ngộ).
Ngài Đại-Trưởng-Lão Aññāsikoṇḍañña Xin Thọ Tỳ-Khưu
Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña đã phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên y theo Đức-Phật, đã chứng đạt đến chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ thật-tánh đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế, đã thấu rõ, thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, nên đã diệt- đoạn-tuyệt hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp,… không còn hoài-nghi nào nữa với trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình, đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đúng theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng! Con xin nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài cho phép con được thọ Sa-di và Tỳ-khưu.
Đức-Thế-Tôn từ bi đưa ngón tay trỏ chỉ và truyền dạy rằng:
-“Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”
- Này Koṇḍañña! Con hãy đến với Như-Lai. Con trở thành Tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh- quả và Niết-bàn, cuối cùng giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
Đức-Thế-Tôn chỉ truyền dạy như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña đã trở thành tỳ-khưu.
(Xong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân)
Tam-Bảo Xuất Hiện Trên Thế GianĐức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này xong, trong nhóm 5 tỳ-khưu chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Aññasi- koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, cùng với 180 triệu chư-thiên, phạm-thiên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật Gotama chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn tùy theo các pháp-hạnh Ba-la-mật và năng lực 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị.
Sau khi trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña được Đức-Phật cho phép xuất gia tỳ-khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā.
Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía Ngài Đại Trưởng-lãoAññāsikoṇḍañña truyền dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”
Thật kỳ diệu thay! Khi Đức-Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ của Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo là một vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu được thành tựu do quả phước thần thông. Vị Tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị tỳ-khưu có 60 hạ.
Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu (âm-lịch). Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama. Đức-Phật cho phép Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña xuất gia trở thành vị tỳ-khưu đầu tiên.
Ngay khi ấy, Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn 3 ngôi Tam-Bảo đầu tiên xuất hiện trên thế gian vào ngày rằm tháng 6 âm-lịch.
Đức-Phật Tiếp Tục Dạy 4 Vị Tỳ-Khưu
Trong nhóm 5 tỳ-khưu, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññasikoṇḍañña trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu đầu tiên và cũng trở thành vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, còn lại 4 vị tỳ-khưu khác, Đức-Phật còn phải chỉ dạy.
* Sáng ngày 16 tháng 6, Đức-Phật không ngự đi khất thực, ở lại tại khu rừng, để chỉ dạyNgài Vappa và Ngài Bhaddiya, còn 3 vị Tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5 Tỳ-khưu độ trong ngày.
Ngày hôm ấy, Ngài Vappa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu cũng theo cách Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 17 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Bhaddiya và Ngài Mahānāma, còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dângvật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 Tỳ-khưu.
Ngày hôm ấy, Ngài Bhaddiya chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu cũng theo cách Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 18 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa và Ngài Đại-đức Bhaddiya đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị Tỳ-khưu.
Ngày hôm ấy, Ngài Mahānāma chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu cũng theo cách Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 19 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Assaji, còn 4 vị Tỳ-khưu đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị Tỳ-khưu.
Ngày hôm ấy, Ngài Assaji chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu cũng theo cách Ehibhikkhū-pasampadā.
Như vậy, nhóm 5 tỳ-khưu đều trở thành 5 bậc Thánh-Nhập-lưu trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama.
Để nâng đỡ nhóm 5 tỳ-khưu Thánh-Nhập-lưu lên bậc Thánh A-ra-hán,
* Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái- Vô-Ngã.
Thật vậy, sau khi nghe Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã xong, nhóm 5 tỳ-khưu đều chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai; chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quảtrở thành bậc Thánh-Bất-lai; cho đến chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả,diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama.
Như vậy, ngoài Đức-Phật ra, còn có 5 vị Thánh A-ra-hán đã xuất hiện trên thế gian này.
Tìm Hiểu Thật-Tánh Của Tứ Thánh-Đế
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo([1]) giảng giải 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế như sau:
1- Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca) đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam giới, có 4 thật-tánh là:
1.1- Thật-tánh khổ là luôn luôn hành hạ,
1.2- Thật-tánh khổ là do nhân-duyên cấu tạo,
1.3- Thật-tánh khổ làm nóng nảy,
1.4- Thật-tánh khổ là do luôn luôn biến đổi.
2- Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya- ariyasacca) đó là 3 loại tham-ái là Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
2.1- Thật-tánh làm nhân sinh Khổ-đế,
2.2- Thật-tánh làm cho phát sinh Khổ-đế
2.3- Thật-tánh ràng buộc trong Khổ-đế,
2.4- Thật-tánh dính mắc trong Khổ-đế.
3- Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodha ariya-sacca) đó là Niết-bàn là Pháp-Diệt-Khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
3.1- Thật-tánh giải thoát Khổ-Thánh-đế,
3.2- Thật-tánh không bị ràng buộc trong Khổ-
Thánh-đế,
3.3- Thật-tánh không bị nhân-duyên nào cấu tạo,
3.4- Thật-tánh không còn tử sinh luân hồi.
4- Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca)đó là pháp-hành bát-chánh-đạo: Chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, có 4 thật-tánh là:
4.1- Thật-tánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn,
4.2- Thật-tánh là pháp-hành chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế,
4.3- Thật-tánh là pháp-hành giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
4.4- Thật-tánh là pháp-hành dẫn đầu làm phận-sự: biết Khổ-Thánh-đế, diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế.
Tất cả 16 thực-tánh của tứ Thánh-đế này đồng thành tựu cũng một lúc trong 4 Thánh-đạo-tâm.
|
[ Ðầu trang]
Tam-Tuệ-Luân (Tiparivaṭṭa)
Đức-Phật dạy rằng:
Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athā’haṃ bhikkhave, sadevake lokesamārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya “anuttaraṃ sammā-sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ…”
“- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai…”
- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, Phạm thiên cả thảy”.
Tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân là thế nào?
Tam-tuệ-luân đó là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự trong tứ Thánh-đế là:
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế,
2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế,
3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự trong tứ Thánh-đế.
Giảng Giải
1- Saccañāṇa: Trí-Tuệ-Học Trong Tứ Thánh-Đế
Hành giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, điều trước tiên cần phải học về phần pháp-họccủa tứ Thánh-đế, đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:
1.1- Trí-Tuệ-Học Trong Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Khổ-Thánh-đế là học về ngũ-uẩn-chấp-thủ (pañcupadānakkhandha)nghĩa là ngũ-uẩn là đối-tượng của 4 pháp-chấp-thủ (tham-dục-chấp-thủ, tà-kiến-chấp-thủ, pháp-thường-hành-chấp-thủ,ngã-kiến-chấp-thủ).
Ngũ-uẩn-chấp-thủ có 5 uẩn là:
1- Sắc-uẩn-chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
2- Thọ-uẩn-chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng củapháp-chấp-thủ.
3- Tưởng-uẩn-chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
4- Hành-uẩn-chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
5- Thức-uẩn-chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
* Mỗi tâm phát sinh chắc chắn có một số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên có 4 uẩn phát sinh:
- Tâm ấy thuộc về thức-uẩn,
- Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn,
- Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn,
- Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.
- Và vatthurūpa là nơi nương nhờ của tâm với tâm-sở ấy phát sinh thuộc về sắc-uẩn.
* Đối với tất cả chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và chư phạm-thiên trú trong 15 cõi sắc-giới (trừ cõi trời Vô-tưởng-thiên) đều có đủ ngũ-uẩn.
* Đối với tất cả chư phạm-thiên trú trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh-uẩn mà thôi, không có sắc-uẩn.
* Đối với tất cả phạm-thiên trú trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩn là sắc-uẩn.
Trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này:
* Sắc-uẩn-chấp-thủ thuộc về sắc-pháp,
* Thọ-uẩn-chấp-thủ, tưởng-uẩn-chấp-thủ, hành-uẩn-chấp-thủ, thức-uẩn-chấp-thủ thuộc vềdanh-pháp.
Như vậy, ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.
1.2-Trí-Tuệ-Học Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại tham-ái.
Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại,108 loại
* Tham-ái có 3 loại là:
1- Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái.
2- Bhavataṇhā: Hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền vô-sắc-giới-tâm, trong cõi trời sắc-giới, cõi trời-vô-sắc-giới.
3- Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đoạn-kiến.
* Tham-ái có 6 loại là:
1- Rūpataṇhā: Sắc-ái là tham-ái trong đối-tượng sắc-dục
2- Saddataṇhā: Thanh-ái là tham-ái trong đối-tượng thanh-dục,
3- Gandhataṇhā: Hương-ái là tham-ái trong đối-tượng hương-dục,
4- Rasataṇhā: Vị-ái là tham-ái trong đối-tượng vị-dục,
5- Phoṭṭhabbataṇhā: Xúc-ái là tham-ái trong đối-tượng xúc-dục,
6- Dhammataṇhā: Pháp-ái là tham-ái trong đối-tượng pháp-dục,
* Tham-ái có 18 loại là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng thành 18 loại tham-ái.
* Tham-ái có 54 loại là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời:
- Thời quá-khứ có 18 loại tham-ái,
- Thời hiện-tại có 18 loại tham-ái,
- Thời vị-lai có 18 loại tham-ái,
Trong 3 thời gồm có 54 loại tham-ái.
* Tham-ái có 108 loại là 54 loại tham-ái nhân với 2 bên:
- Bên trong của mình có 54 loại tham-ái,
- Bên ngoài mình, của người khác, vật khác có 54 loại tham-ái.
Trong 2 bên gồm có 108 loại tham-ái.
Các loại tham-ái đều thuộc về Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.
1.3- Trí-Tuệ-Học Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại Niết-bàn.
* Niết-bàn có 2 loại:
1- Sa upādisesanibbāna: Hữu-dư-Niết-bàn là Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hánđã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là phiền-não-Niết-bàn (kilesaparinibbāna), nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
2- Anupādisesanibbāna: Vô-dư-Niết-bàn là Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót; đến lúc hết tuổi thọ, bậcThánh-A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là ngũ-uẩn-Niết-bàn (khandhaparinibbāna), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Niết-bàn có 3 loại:
1-Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặcsắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-vô-thường (aniccalakkhaṇa) hơn trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã,do năng lực của tín-pháp-chủ (sadhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của giới (sīla), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi làAnimittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn là Niết-bàn không có hiện tượng của các pháp-hữu-vi.
2- Appaṇihitanibbāna: Vô-ái-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-khổ (dukkhalakkhaṇa) hơn trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-vô-ngã,do năng lực của định-pháp-chủ (samādhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của định (samādhi) dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Appaṇihita-nibbāna: Vô-ái-Niết-bàn là Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
3- Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-vô-ngã (anattalakkhaṇa) hơn trạng- thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,do năng lực của tuệ-pháp-chủ (paññindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của tuệ (paññā), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi làSuññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn là Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
Những Niết-bàn này đều thuộc về Diệt-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh nhân đã chứng ngộ.
1.4- Trí-Tuệ-Học Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Trí-tuệ-học trong Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về pháp-hành-Bát-chánh-đạo.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh:
1- Sammādiṭṭhi: Chánh-kiến là trí-tuệ chân-chính, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,
2- Sammāsaṅkappa: Chánh-tư-duy là tư duy chân-chính, có 3 pháp:
- Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục).
- Tư duy không làm khổ mình, khổ người,
- Tư duy không làm hại mình, hại người.
3- Sammāvācā: Chánh-ngữ là lời nói chân-chính có 4 điều:
- Không nói dối,
- Không nói lời chia rẽ,
- Không nói lời thô tục,
- Không nói lời vô ích.
4- Sammākammanta: Chánh-nghiệp là nghề nghiệp chân-chính có 3 điều:
- Không sát sinh,
- Không trộm cắp,
- Không tà dâm.
5- Sammā-ājīva: Chánh-mạng là nuôi mạng chân-chính, tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.
6- Sammāvāyāma: Chánh-tinh-tấn là tinh tấn chân chính có 4 pháp:
- Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh,
- Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh,
- Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh,
- Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
7- Sammāsati: Chánh-niệm là niệm chân chính, có 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:
- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
- Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
- Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
- Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.
8- Sammāsamādhi: Chánh-định là định-tâm chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Bát-chánh-đạo đó là 8 loại tâm-sở:
* Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở ,
* Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở,
* Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở ,
* Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở,
* Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở,
* Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở,
* Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở,
* Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.
8 loại tâm-sở này gọi là bát-chánh-đạo chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo có 3 tiết-chếtâm-sở (viraticetasika): chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về loại niyata ekatocetasika, 3 tâm-sở cố định chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi.
* Chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở là 3 tiết-chế tâm-sở thuộc về loại aniyatayogīcetasika: bất-định tâm-sở còn thuộc loại nānākadāci: mỗi tâm-sở riêng rẽ đồng sinh với 8 dục-giới-đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm-sở này có mỗi đối tượng khác nhau.
Bát-Chánh-Đạo TheoTam-Giới Và Siêu-Tam-Giới
Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại, phân biệt bát-chánh-đạo tam-giớivà bát-chánh-đạo siêu-tam-giới như sau:
* Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân chính thấy đúng, biết đúng có 5 loại:
1- Kammassatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-sở-nghiệp là trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện- nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là thuộc của riêng ta, chỉ có ta là người thừa hưởng quả an lạc của thiện-nghiệp và chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy mà thôi.
2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới (lokiyavipassanā)
thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp.
3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-đạo-
tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara- vipassanā) chứng đắc Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara-vipassanā) chứng đắc Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-quán-triệt là trí-tuệ quán triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, phiền não nào đã bị diệt-đoạn-tuyệt và phiền não nào chưa bị diệt.
Trong 5 loại chánh-kiến này, chánh-kiến-sở-nghiệp, chánh-kiến-thiền-tuệ, và chánh-kiến-quán-triệt thuộc về tam-giới.
Chánh-kiến-Thánh-đạo-tuệ và chánh-kiến-Thánh-quả-tuệ thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở (paññindriya-cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-kiến thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa) là tư duy chân-chính có 3 điều:
1- Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục,
2- Tư duy không làm khổ mình, khổ người,
3- Tư duy không làm hại mình, hại người,
Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakkacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
*Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới.
* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thìchánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có 3 loại:
1- Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời-nói là lời nói hay, nói thật, lời nói chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho người nghe.
2- Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa 4 tà-ngữ:
- Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chơn-thật,
- Tránh xa lời nói chia-rẽ, mà nói lời hoà-hợp,
- Tránh xa lời thô-tục, mà nói lời dịu dàng
- Tránh xa lời vô-ích, mà nói lời hữu-ích.
3- Virati sammāvācā: Chánh-ngữ tiết-chế là tiết-chế-tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 3 loại chánh-ngữ này, chánh-ngữ lời-nói và chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.
Chánh-ngữ tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammā-vācācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với tam-giới tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thìchánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-nghiệp (Sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính có 3 loại:
1-Kriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành- động là hành động thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho mọi người, mọi chúng-sinh.
2- Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa tà-nghiệp:
- Tránh xa sự sát-sinh,,
- Tránh xa sự trộm-cắp,
- Tránh xa sự tà-dâm.
3- Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp tiết-chế là tiết-chế tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 3 loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động và chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam giới.
* Chánh-nghiệp tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc vềsiêu-tam-giới.
Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammantacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thìchánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-mạng (Sammā-ājīva) là nuôi mạng chân-chính có 2 loại:
1- Viriya sammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.
2- Virati sammā-ājīva: Chánh-mạng tiết-chế là tiết-chế tâm-sở tránh xa cách sống tà-mạng, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong 2 loại chánh mạng này, chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam giới.
* Chánh-mạng tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.
Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīvacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thìchánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân chính, có 4 điều:
- Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh,
- Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh,
- Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh,
- Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (viriya-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm thì chánh-tinh-tấn ấy thuộc về tam-giới.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính trong 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:
1- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
2- Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
3- Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,
4- Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.
Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
* Chánh-định (Sammāsamādhi) là định chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới.
* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu-tam-giới.
Đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-học-Phật-giáo (Pariyattisāsana).
2- Kiccañāṇa:Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Tứ Thánh-Đế
Sau khi học hỏi, hiểu rõ trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong thuộc về phần Pháp-học-Phật- giáo, luân chuyển sang trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về phần Pháp-hành- Phật-giáo.
Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ là thực-hành theo trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế.
Trí-tuệ-hành phận-sự trong mỗi Thánh-đế khác nhau như sau:
- Trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế,
- Trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế
- Trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ Diệt-Khổ-Thánh-đế,
- Trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến-hành Pháp-hành-Diệt-Khổ-Thánh-đế.
2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Mỗi Thánh-Đế
2.1- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Khổ-Thánh-Đế
Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca) đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là pháp mà hành giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) khổ-đếvới trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp, sắc-pháp ấy là khổ-đế. (không phải nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya ariyasacca) đó là tham-ái là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt([1])(pahātabbaṃ) nhân-sinh-khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới diệt từng thời tham-ái. (không phải nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.3- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodha ariya-sacca) đó là Niết-bàn là pháp mà hành-giả cótrí-tuệ-hành phận-sự nên chứng ngộ (sacchi-kātabbaṃ) Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn([2]) (không phải nên biết, nên diệt, nên tiến hành).
2.4- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế
Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó làpháp-hành bát-chánh-đạo là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành(bhāvetabbaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đang tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo. (không phải nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ)
Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế là chính, đóng vai trò quan trọng trong pháp-hành-thiền-tuệ, như sau:
* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp là khổ-đế thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế ấy, thì tham-ái không thể nương nhờ nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp ấy mà phát sinh, nghĩa là diệt tham-ái, đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời (tadaṅganibbāna) Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế.
* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế,đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế.
Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đếlà chính, đồng thời trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Diệt-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế cũng thành tựu cùng một lúc không trước không sau.
Bốn trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này thuộc về Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipatti-sāsana).
3- Katañāṇa: Trí-Tuệ-Thành Hoàn Thành Xong Phận-Sự Trong Tứ-Thánh-Đế
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, khi có 4 trí-tuệ-hành phận-sự tứ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ-đế, thì được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành phận-sự tứ Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Khi ấy, Khổ-Thánh-đế đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) sắc-pháp danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã biết xong (pariññātaṃ) Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt (pahātabbaṃ) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã diệt xong (pahīnaṃ) Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đếvới Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ (sacchikātabbaṃ) Niết-bàn-từng-thời là Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã chứng-ngộ xong (sacchikataṃ)Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
* Cũng đồng thời, pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là bát-chánh-đạo là pháp màtrí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) bát-chánh-đạo, pháp-hành-Diệt-Khổ-đế, với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong (bhāvitaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc vềtrí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu tam-giới, đã hoàn thành 4 phận-sự là:
* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong với Thánh-đạo-tuệ,
* Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong vớiThánh-đạo-tuệ.
Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế, thì trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong pháp-hành bát- chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế là chính yếu, còn lại 3 trí-tuệ-thành phận-sự trong mỗi Thánh-đế kia cũng đã được hoàn thành xong mỗi phận-sự đồng thời cùng một lúc không trước, không sau.
4 trí-tuệ-thành hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-thành-Phật-giáo (paṭivedhasāsana).
Ví dụ: Một đèn dầu thắp sáng trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra cùng một lúc, không trước không sau:
* Ánh sáng toả ra,
* Bóng tối biến mất,
* Dầu hao dần,
* Tim cháy dần,
4 sự việc này xảy ra đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Cũng như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự, và 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự trong tứ Thánh-đế được hoàn thành xong đồng thời, cùng một lúc, không trước không sau.
Quan Hệ Nhân Quả Của Tam-Tuệ-Luân
Quan hệ từ quả đến nhân, từ nhân đến quả
4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-hành phận-sự đã hoàn thành xongtrong tứ Thánh-đế.
4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã thực-hành đúng theo phận-sự trong mỗi Thánh-đế, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi pháp của mỗi Thánh-đế.
Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đếđúng theo phận-sự của mỗi Thánh-đế.
4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
Vai Trò 4 Trí-Tuệ-Hành Và 4 Trí-Tuệ-Thành
Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn đầu, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-hành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn cuối, thì trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự đã tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế với 4 Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.
Thánh-Đạo-Tuệ Diệt-Đoạn-Tuyệt 3 Loại Tham-Ái
1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại tham-ái: vibhava-taṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến, và bhava-taṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến, trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến. (còn lại 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, thì chưa diệt được).
2- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị- dục, xúc-dục) loại thô ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn 5 đối-tượng ngũ-dục loại vi tế chưa diệt được).
3- Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục vi tế ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới thì chưa diệt được).
4- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: bhava-taṇhā: tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến không còn dư sót.
Như vậy, bậc Thánh-A-ra-hán có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót nữa.
[1] Diệt tham-ái có 5 cách:
- Vikkhambhanappahāna: Diệt bằng cách chế ngự tham-ái do năng lực của bậc thiền.
- Tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời tham-ái do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới .
- Samucchedappahāna: Diệt-đoạn-tuyệt tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
- Paṭippassadhippahāna: Diệt bằng cách làm vắng-lặng tham-ái do năng lực của Thánh-quả-tuệ
- Nissaraṇappahāna: Diệt khỏi tham-ái do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.
[2] Nirodho nibbānaṃ Niết-bàn có nghĩa là diệt, có 5 loại:
- Vikkhambhananibbāna: Diệt bằng cách chế ngự phiền não do năng lực của bậc thiền.
- Tadaṅganibbāna: Diệt-từng-thời phiền não do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới.
- Samucchedanibbāna: Diệt-đoạn-tuyệt phiền não do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
- Paṭippassadhinibbāna: Diệt cách làm vắng lặng phiền não do năng lực của Thánh-quả tuệ.
- Nissaraṇanibbāna: Diệt khỏi phiền não do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.
|
[ Ðầu trang]
Tứ Thánh-Đế Trong Phật Giáo
Tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, là chánh-pháp cốt lõi căn bản trọng yếu trong giáo pháp của chư Phật quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại và chư Phật vị-lai.
Tứ-Thánh-Đế:
1- Dukkha ariyasacca: Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
Trong giáo pháp của Đức-Phật, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong cõi dục-giới, cõi sắc-giới, và danh-pháp trong cõi vô-sắc-giới, đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ códukkha-sacca: khổ-đế mà thôi, không có pháp nào gọi là lạc-đế cả.
Tuy trong thọ tâm-sở (vedanācetasika) có sukhavedanā: thọ lạc, nhưng sukhavedanā: thọ-lạc ấy gọi là vipariṇāmadukkha: biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc (sukhavedanā) sinh rồi diệt vô-thường làm biến chất, luôn luôn hành hạ, nên chỉ là khổ-đế mà thôi.
Thọ lạc dù là khổ vẫn còn dễ chịu đựng.
Như vậy, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về pháp-hữu-vi đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ có khổ-đế mà thôi, không có lạc-đế.
Nếu có lạc (sukha) thì lạc ấy gọi là sukhavipallāsa: lạc-đảo-điên do tưởng-đảo-điên (saññāvipallāsa), tâm-đảo-điên (cittavipallāsa), tà-kiến-đảo-điên (diṭṭhivipallāsa).
Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc về pháp-hữu-vi đều sinh rồi diệt, nên có 4 trạng-thái: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh, nhưng do tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên tưởng sai, biết sai, thấy sai, chấp lầm cho rằng:
“Danh-pháp, sắc-pháp là thường, lạc, ngã, tịnh”.
Đúng theo sự-thật chân-lý thì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc vềpháp-hữu-vi chỉ là dukkhasacca: khổ-đế mà thôi, không có lạc-đế nào cả.
2- Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là taṇhā: tham-ái.
Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.
* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại
- Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó,.. mà không được thoả mãn như ý, thìsân-tâm phát sinh không vừa lòng, làm cho khổ-tâm.
* Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó ... mà được thoả mãn như ý, thì tham-tâm phát sinh chấp thủ cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh khổ-tâm như lo lắng, giữ gìn, sầu não.
Như Đức-Phật dạy câu kệ rằng:
“Taṇhāya jāyati soko,
taṇhāya jāyatī bhayaṃ.
Taṇhāya vippamuttassa,
natthi soko kuto bhayaṃ.”([1])
Sự sầu não phát sinh do tham-ái,
Sự lo sợ phát sinh do tham-ái,
Bậc Thánh A-ra-hán diệt tham-ái,
Không còn sầu não, từ đâu có lo sợ?
* Tham-ái là nhân-sinh-khổ trong kiếp vị-lai
Tất cả mọi chúng-sinh nào hễ còn tham-ái là còn phải tái sinh kiếp-sau, các chúng-sinh ấy gồm cả 3 bậc Thánh hữu học: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai,bởi vì 3 bậc Thánh-nhân này vẫn còn một phần tham-ái.
* Chỉ có bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi tham-ái, hoàn toàn không còn tham-ái dư sót nữa mà thôi.
Chúng-sinh còn có tham-ái sau khi chết thì tham-ái dẫn dắt nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, kiếp sau như thế nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh ấy.
* Chúng-sinh ấy sau khi chết, nếu ác-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh vào 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh), thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của ác-nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.
* Chúng-sinh ấy sau khi chết, nếu dục-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau thì sinh làm người trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới, được sinh trong cõi thiện-dục-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của dục-giới-thiện-nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.
* Hành giả đã chứng đắc các bậc thiền-sắc-giới sau khi chết, chắc chắn sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, sinh làm phạm thiên trong cõi trời sắc-giới, được sinh trong cõi trời sắc-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của sắc-giới-thiện-nghiệp sở đắc của hành-giả ấy mà thôi.
* Hành-giả đã chứng đắc các bậc thiền-vô-sắc-giới sau khi chết, chắc chắn vô-sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau, sinh làm phạm thiên trong cõi trời vô-sắc-giới, được sinh trong cõi trời vô-sắc-giới nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của vô-sắc-giới-thiện-nghiệp sở đắc của hành-giả ấy mà thôi.
Ba Bậc Thánh Hữu Học (Sekha ariya)
* Bậc Thánh-Nhập-lưu sau khi chết, vĩnh viễn không bao giờ bị sa đoạ trong 4 cõi ác-giới nữa, mà chỉ có thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Đến kiếp thứ 7, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh-Nhất-lai sau khi chết, dục-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làmngười trong cõi người hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục-giới chỉ còn 1 kiếp nữa mà thôi.
Trong kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh-Bất-lai sau khi chết, không còn tái sinh trở lại cõi dục-giới, mà chỉ có sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm phạm thiên trong cõi trời sắc-giới mà thôi, được sinh trong cõi trời sắc-giới nào tuỳ theo bậc thiền sở đắc của Ngài.
Vị Thánh-Bất-lai phạm-thiên ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-A-ra-hán tại cõi trời sắc-giới, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái không còn dư sót, nên ngaykiếp hiện-tại, Ngài chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.
3- Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn.
Niết-bàn là pháp diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế và cũng là pháp diệt quả Khổ-Thánh-đế.
* Diệt Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, gọi là Phiền-não Niết-bàn (Kilesa-parinibbāna), nghĩa là mọi tham-ái, mọi phiền não đã bị diệt-đoạn-tuyệt rồi, mọi phiền não vĩnh viễn không còn phát sinh nữa.
Như vậy, Niết-bàn là pháp diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.
* Diệt Quả Khổ-Thánh-Đế
Chư Thánh A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái mọi phiền não không còn dư sót nữa, đến khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, gọi làNgũ-uẩn Niết-bàn (Khandhaparinibbāna) nghĩa là sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi, không còn tái sinh kiếp nào nữa.
Như vậy, Niết-bàn là pháp diệt quả Khổ-Thánh-đế.
4-Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca: Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, đó là 8 tâm-sở, là trí-tuệ tâm-sở, hướng-tâm tâm-sở, chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở, tinh-tấn tâm-sở, niệm tâm-sở, nhất-tâm tâm-sở.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh, đó là 8 tâm-sở này không đồng sinh đầy đủ trong tam-giới-tâm, nhưng khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, đến khi chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, khi ấy, bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở: trí-tuệ tâm-sở, hướng-tâm tâm-sở, chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở, tinh-tấn tâm-sở, niệm tâm-sở, nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với Thánh-đạo-tâm ấy hoàn thành xong 4 phận-sự:
- Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì Thánh-đạo-tuệ đã biết xong,
-Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì Thánh-đạo-tuệ đã diệt xong,
- Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ xong,
-Pháp-hành dẫn đến diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì Thánh-đạo-tuệ đã tiến hành xong.
Vì vậy, bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt-Khổ-Thánh-đế.
Tứ Thánh-đế này là pháp nền tảng căn bản, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của chư Phật Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, bởi vì hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, ban đầu dù có những đối-tượng-thiền-tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đến giai đoạn cuối, cũng đều dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn được.
Cho nên, tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý mà chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, là pháp căn bản cốt yếu trong giáo pháp của chư Phật trong 3 thời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.
Nhân Quả Liên Quan Của Tứ Thánh-Đế
Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân-quả liên quan với nhau:
* Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới, làquả của Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.
* Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là nhân phát sinh Khổ-Thánh-đế, tham-ái, lànhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā).
* Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào cả, bởi vì,Niết-bàn là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) là pháp hoàn toàn không có một nhân-duyên nào cấu tạo.
* Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế.
Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế, không phải là nhân phát sinh Niết-bàn. Cho nên Niết-bàn cũng không phải là quảcủa pháp-hành bát-chánh-đạo.
Vậy, Niết-bàn chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm mà thôi.
Ví dụ nôm na rằng:
“Con đường dẫn đến kinh đô”
* Con đường ví như Bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế.
* Kinh đô ví như Niết-bàn là pháp Diệt-Khổ-Thánh-đế.
Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân phát sinh kinh đô.
* Pháp-Hành-Trung-Đạo
(Majjhimāpaṭipadā)
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là một pháp-hành chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.
Trong Kinh Dhammacakkappavattanasutta:([1]) Kinh Chuyển-Pháp-Luân mà Đức-Phật thuyết giảng lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Hai Pháp Thấp Hèn
Đức-Phật thuyết giảng rằng:
- Này chư Tỳ-khưu! Có hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà bậc xuất gia không nên thực-hành theo.
Hai pháp ấy như thế nào?
1- Một là việc thường thụ hưởng lạc trong ngũ-dục do tâm-tham-ái hợp với thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
2- Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do sân-tâm và có đoạn-kiến thuộc về pháp-hành-khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải pháp-hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại sự lợi ích, sự an lạc.
Pháp-Hành-Trung-Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
- Này chư Tỳ-khưu! Không thiên về hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến ấy, Như-Lai đã thực-hành theo pháp-hành-trung-đạo, nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Như thế nào gọi là pháp-hành-trung-đạo mà Như-Lai đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền-não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như-Lai đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh; trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh đã làm vắng lặng mọi phiền não; đã làm cho trí-tuệ siêu-việt-thông-suốt chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn”.
Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng pháp-hành-trung-đạo chính là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Như vậy, 8 chánh này chính là 8 tâm-sở (cetasika) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Thật ra, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có 36 tâm-sở đồng sinh. Trong 36 tâm-sở ấy chỉ có 8 tâm-sở gọi là bát-chánh-đạo như sau:
1- Trí-tuệ tâm-sở gọi là chánh-kiến,
2- Hướng-tâm tâm-sở gọi là chánh-tư-duy,
3- Chánh-ngữ tâm-sở gọi là chánh-ngữ,
4- Chánh-nghiệp tâm-sở gọi là chánh-nghiệp,
5- Chánh-mạng tâm-sở gọi là chánh-mạng,
6- Tinh-tấn tâm-sở gọi là chánh-tinh-tấn,
7- Niệm tâm-sở gọi là chánh-niệm,
8- Nhất-tâm tâm-sở gọi là chánh-định.
Tám tâm-sở này cùng với 28 tâm-sở khác đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo đó là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Như vậy, pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này không phải là pháp-hành bắt đầu thực-hành, cũng không phải là pháp-hành đang thực-hành, mà sự thật là pháp-hành đã thực- hành xong rồi, đã hoàn thành xong mọi phận-sự tứ Thánh-đế, nên pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh này gọi là Pháp-thành-Phật-giáo (Paṭivedhasāsana) là kết quả của pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).
Cho nên, pháp-hành-trung-đạo này là pháp-hành-bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh ấy ởgiai đoạn cuối.
Bắt Đầu Thực Hành Pháp-Hành-Bát-Chánh-Đạo
* Giai đoạn đầu thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, hành-giả cần phải bắt đầu thực-hành chánh-niệm: niệm-thân, niệm-thọ, niệm-tâm, niệm-pháp, đó là thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ.
Thật vậy, trong kinh Rahogatasutta([2]) Ngài Đại-đức Anuruddha từng tư duy rằng:
“Hành-giả nào chán nản thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả ấy được gọi là người chán nản thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên không thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi.
“Hành-giả nào tinh-tấn thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành giả ấy được gọi là người có tinh-tấn thực-hành pháp-hành-bát-chánh-đạo, nên có thể dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi…”
Như vậy, chánh-niệm đó là pháp-hành-tứ-niệm-xứ là nhân đầu dẫn đến quả cuối cùng làThánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Trong chú giải kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta-vaṇṇanā giảng giải rằng:
“Pubbabhāgasatipaṭṭhānamaggo” Tứ-niệm-xứ là phần đầu của bát-chánh-đạo.
Pháp-Hành-Trung-Đạo Là Pháp-Hành-Tứ-Niệm-Xứ
Trong chi bộ kinh, phần 3 chi pháp, Đức-Phật thuyết giảng về 3 pháp-hành (paṭipadā):
1- Āgāḷhā paṭipadā: Pháp-hành hưởng lạc cực đoan,
2- Nijjhāmāpaṭipadā: Pháp-hành khổ hạnh cực đoan,
3- Majjhimāpaṭipadā: Pháp-hành-trung-đạo.
Đức-Phật thuyết giảng về pháp-hành-trung-đạo rằng:
- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành-trung-đạo là thế nào?
- Này chư Tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, tỳ-khưu:
1- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thân trong phần thân-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này,
2- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực
giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong phần thọ-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
3- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tâm trong phần tâm-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này.
4- Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các pháp trong phần pháp-niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này…”
Như vậy, phần đầu của Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, và phần cuối của Pháp-hành-trung-đạo là bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
Pháp-hành-trung-đạo có 2 giai đoạn:
1- Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo,
2- Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành diệt tham- tâm hài lòng (abhijjhā) và diệt sân-tâm bực mình (domanassa) đồng thời cũng diệt si-tâm tăm tối không thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, để cho trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới gồm có 16 loại trí-tuệ-thiền-tuệ.
1- Giai Đoạn Đầu Của Pháp-Hành-Trung-Đạo,
* Giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứhoặc pháp-hành-thiền-tuệ để phát sinh trí-tuệ từ trí-tuệ thứ nhất gọi làNāmarūpaparicchedañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới đúng theo chân-nghĩa-pháp đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, v.v… Tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự,
Đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayā-nupassanāñāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
Và các trí-tuệ-thiền-tuệ tuần tự phát sinh cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi làGotrabhu-ñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ chuyển tánh từ dòng phàm-nhân sang dòng Thánh-nhân.Trí-tuệ-thiền-tuệ này có khả năng đặc biệt tiếp nhận đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, song tâm vẫn còn dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
Đó là giai đoạn đầu của pháp-hành-trung-đạo.
2- Giai Đoạn Cuối Của Pháp-Hành-Trung-Đạo,
* Giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo là hành-giả đã chứng đắc đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ đồng sinh với Thánh-đạo-tâm và trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 15 gọi là Phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ đồng sinh với Thánh-quả-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Khi ấy, chắc chắn có bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm ấy.
[1] Saṃ., Mahāvaggapāḷi, Kinh Dhammacakkappavattanasutta
[2] Saṃyuttanikāya, bô, Mahāvaggapāḷi, kinh Rahogatasutta
Thực Hành Pháp-Hành-Trung-Đạo
Pháp-hành-trung-đạo (Majjhimāpaṭipadā) là pháp-hành mà hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết các đối-tượng-tứ-niệm-xứ là thân, thọ, tâm, pháp hoặc đối-tượng-thiền-tuệ là tất cả mọi sắc-pháp, tất cả mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp một cách rành rẽ.
Pháp-hành-trung-đạo là pháp-hành có khả năng diệt tham-tâm hài lòng (abhijjhā) và diệtsân-tâm bực mình (domanassa) trong đối-tượng tứ-niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp,
danh-pháp ấy, đồng thời diệt si-tâm tối tăm che phủ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
* Thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành giả không thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không học hỏi, nghiên cứu về môn học vi-diệu-pháp, không hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã.
Hành giả không hiểu rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế(dukkha-sacca) là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyya) khổ-đếvới trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do chưa hiểu rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới, chưa hiểu biết trí-tuệ-hành phận sự nên biết (pariññeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới như vậy,nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ, hành-giả coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia. Hoặc khi thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả coi trọng đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, coi khinh đối-tượng thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có tâm thiên vị trong đối-tượng niệm-xứ hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, khi thì tham-tâm hài lòng phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ này, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, khi thì sân-tâmbực mình phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, và không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Hơn nữa, khi có tham-tâm hoặc sân-tâm phát sinh, ắt có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm, sân-tâm ấy, nên che phủ thật-tánh của danh-pháp, sắc-pháp. Vì vậy, hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm, làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Nếu khi hành-giả coi trọng đối-tượng sắc-ngồi thì tham-tâm hài lòng nơi sắc-ngồi ấyphát sinh, chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy che phủ thật-tánh sắc-pháp của sắc-ngồi ấy.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), nên tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy, nếu hành giả coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp thì sân-tâm bực mình phát sinh, bởi vì phóng-tâm làm mất đối-tượng sắc-ngồi ấy. Sân-tâm phát sinh chắc chắn có si-tâm-sở đồng sinh với sân-tâm ấy làm che phủ thật-tánh củadanh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng sắc-ngồi, không diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi và cũng không diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp phóng-tâm, trong khi đang thực-hànhpháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi ấy.
Cho nên, hành giả thực hành không đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
* Thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo như thế nào?
Số hành-giả thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật giáo, thường học hỏi, nghiên cứu, hiểu biết về môn học vi-diệu-pháp, hiểu biết thật-tánh tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là pháp-vô-ngã (không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải vật này, vật kia, v.v…
Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,trạng-thái-vô-ngã.
Hành-giả hiểu biết rõ tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều là khổ-đế là pháp mà trí-tuệ-hành có phận-sự nên biết (pariñ-ñeyya) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
Do nhờ có yonisomanasikāra trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là vô-thường, khổ, vô-ngã, bất-tịnh, nên khi thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này, hoặcđối-tượng sắc-pháp, danh-pháp này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia, hoặc đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp kia. Hành giả không có tâm thiên vị trong các đối-tượng-tứ-niệm-xứ hoặc các đối-tượng-thiền-tuệ.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, đặt tâm-trung-dung nơi đối-tượng-niệm-xứ hoặc nơi đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, nên tham-tâm hài lòng không phát sinh nơi đối-tượng-niệm-xứ này, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp này, và sân-tâm bực mình cũng không phát sinh nơi đối-tượng niệm-xứ kia, hoặcđối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp kia.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ đúng theopháp-hành-trung-đạo (majjhimapaṭipadā), nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ, hoặc đối-tượng-thiền-tuệ, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứhoặc nơi đối-tượng-thiền-tuệ.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Ví dụ: Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ có sắc-ngồi đó là tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm; hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có tư thế ngồi, dáng ngồi thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm làm đối-tượng-thiền-tuệ.
* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồilà sắc-pháp phát sinh do tâm, gọi là sắc-ngồi, hoặc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi là sắc-pháp phát sinh do tâm, đó là tư thế ngồi, dáng ngồi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ với đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi, hoặc pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng sắc-ngồi, hành-giả không coi trọng đối-tượng tư thế ngồi, dáng ngồi gọi là sắc-ngồi, nên tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-ngồi ấy không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp ấy mà thôi.
* Nếu khi có phóng-tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác), làm cho tâm buông bỏ đối-tượng sắc-ngồi ấy thì hành-giả không coi khinh phóng-tâm tâm-sở (uddhaccacetasika) thuộc về danh-pháp, nên sân-tâm bực mình không phát sinh, chỉ có trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp mà thôi.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thân-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng sắc-pháp của sắc-ngồi ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng danh-pháp của phóng-tâm tâm-sở ấy.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo do biết đặt tâm-trung-dungtrong tất cả mọi đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc mọi đối-tượng-thiền-tuệ sắc-pháp, danh-pháp,bởi vì hành-giả không coi trọng đối-tượng niệm-xứ này hoặc đối-tượng-thiền-tuệ này, cũng không coi khinh đối-tượng niệm-xứ kia hoặc đối-tượng-thiền-tuệ kia.
Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, hiểu biết rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới đều có sự sinh, sự diệt, đều có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, không hơn không kém, đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Sở dĩ, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo là vì có yonisomanasikāra hỗ trợ hiểu biết trong tâm với trí-tuệ hiểu biết đúng 4 trạng-thái: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, trạng-thái-bất-tịnh của tất cả mọi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
Thật vậy, * sắc-ngồi là 1 trong đối-tượng tứ-oai-nghi trong thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ,
trạng-thái-vô-ngã, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
*Phóng-tâm đó là phóng-tâm tâm-sở (uddhac-cacetasika) là 1 trong đối-tượng 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇapabba) trong pháp-niệm-xứ thuộc về danh-pháp cũng có sự sinh, sự diệt, cũng có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã,cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Dù đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc dù đối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc vềdanh-pháp thì tâm của hành-giả vẫn có chánh-niệm trực nhận đối-tượng ấy, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của đối-tượng sắc-ngồi thuộc về sắc-pháp hoặc củađối-tượng phóng-tâm tâm-sở thuộc về danh-pháp ấy một cách trung-dung, không hơn không kém, không coi trọng đối-tượng sắc-ngồi, cũng không coi khinh đối-tượng phóng-tâm.
Khi phóng-tâm diệt, hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ trở lại đối-tượng sắc-ngồi cũ như trước.
Cho nên, hành-giả thực-hành đúng theo pháp-hành-trung-đạo.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành-thiền-tuệ trong giai đoạn đầu đúng theo pháp-hành-trung-đạo, vì không thiên về 2 pháp cực đoan là tham-tâm vàsân-tâm, nên diệt được tham-tâm hài lòng nơi đối-tượng-niệm-xứ ấy hoặc đối-tượng-thiền-tuệ ấy, và diệt được sân-tâm bực mình nơi đối-tượng niệm-xứ ấy, hoặc đối-tượng-thiền-tuệấy, đồng thời diệt được si-tâm-sở đồng sinh với tham-tâm ấy, hoặc sân-tâm ấy, nên trí-tuệ-thiền-tuệ tiến triển từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Khi chứng đắc 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn, siêu-tam-giới.
Khi ấy, bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
Đó là giai đoạn cuối của pháp-hành-trung-đạo.
(Xong phần giải thích tóm tắt trong kinh Chuyển-Pháp-Luân).
Đoạn Kết
Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân lần đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Đại-trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Đại-đức Vappa, Ngài Đại-đức Bhaddiya, Ngài Đại-đức Mahānāma, Ngài Đại-đức Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh thành Bāraṇasī.
Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là một bài kinh tối ư quan trọng trong giáo pháp của Đức-Phật. Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng về tứ Thánh-đế, là pháp căn bản, cốt lõi trong Phật-giáo, tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự như sau:
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo, chuyển đến
2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo, chuyển đến
3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong mỗi Thánh-đế thuộc về pháp-thành Phật-giáo đó là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-Bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-nãokhông còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Hành-giả biết rõ phạm-hạnh cao thượng đã hoàn thành, kiếp này là kiếp chót sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Như vậy, kinh Dhammacakkappavatanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân này là bài kinh tóm lược được phần căn bản cốt lõi tứ Thánh-đế, và tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo.
Rằm tháng sáu
Phật-Lịch 2557/2013
Chùa Tổ Bửu-Long,
Q.9, Tp. Hồ-Chí-Minh.
Tỳ-Khưu Hộ-Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇḍita)
|
[ Ðầu trang][Trở về mục lục ]