Nghi Hoặc trong 5 Triền Cái & Hoài Nghi trong 10 Kiết Sử


1. Trong 5 triền cái, nghi hoặc thuộc bất thiện, và trong 10 kiết sử, hoài nghi cũng thuộc bất thiện, nhưng khi dạy cho người xứ Kalama đức Phật khuyên đừng vội tin, như vậy có vẻ như cần phải nghi mới tốt. Vậy 2 loại nghi này khác nhau thế nào?

Thật ra, chưa thấy biết rõ tất nhiên phải nghi ngờ, tức chưa vội tin, nghi này mang tính cẩn thận, dè dặt là cái nghi tốt, người học Đạo nên có cái nghi của sự thận trọng này. 


Trong khi nghi hoặc thuộc 5 triền cái có tính si - phân vân lưỡng lự - do thiếu yếu tố “tứ" nên không đủ rõ ràng để thẩm định đối tượng khiến tâm bị che lấp không thể định được. Còn hoài nghi - kiết sử thứ 2 trong 10 kiết sử - cũng cùng tính chất nhưng đối tượng ở đây là thực tánh chân đế chứ không phải tướng khái niệm của đề mục định. Khi chưa thật sự tuệ tri đâu là tục đế đâu là chân đế thì vẫn còn nhận thức qua lý trí (tưởng tri và thức tri của ý thức) nên chắc chắn còn hoài nghi, tức chưa thấy rõ đâu là chân đâu là giả. Bậc Thánh Dự Lưu không còn hoài nghi vì đã liễu tri Thánh đế nên luôn “tịnh tín bất động”, không còn phân vân do dự đối với Sự Thật Rốt Ráo (Niết-bàn) nữa.

2. Thưa thầy theo kinh sách người nào hết hoài nghi là đắc quả Tu đà hoàn luôn. Vậy thấy Thực tánh pháp rồi thì có mất không? Và có sự khác biệt nào giữa người thấy Thực tánh pháp vẫn còn phàm phu với người thấy được thực tánh pháp đắc quả Tu đà hoàn?

Thấy thực tánh pháp rồi có thể mất có thể không mất, vì Thực tánh chân đế có hai loại: Tánh đế (Sabhàva sacca) và Thánh đế (Ariya sacca). Khi còn phàm phu chỉ mới thấy Tánh đế qua tuệ tri vẫn có thể mất, còn bậc Thánh thấy Thánh đế qua liễu tri nên không mất.
Trong tiến trình tâm chứng ngộ Đạo Quả, khi tâm Đạo ứng khởi thì một mặt thấy Tánh đế của các phiền não và lập tức phiền não diệt ngay đó tâm Đạo liền chứng Thánh đế, Niết-bàn. Trong quá trình tu tập, bỗng một lúc nào đó tâm rỗng lặng trong sáng, vắng bặt mọi khái niệm, tri kiến tạm thời thanh tịnh, lúc đó chính là thấy ra Tánh đế, người ấy có thể nhưng không biết đó là Tánh đế nên mới mất. Nhưng nhờ trải nghiệm nhiều lần như thế mới bắt đầu thực chứng đó là Tánh đế. Khi đã nhận ra Tánh đế thì sớm muộn gì cũng thực chứng Thánh đế.

3. Trong kinh A Hàm có đoạn nói đến Hữu hành Niết-bàn, Vô hành Niết-bàn, Tổn hại Niết-bàn và Trung gian Bát Niết-bàn. Kính xin Thầy giải thích về các loại Niết Bàn này.

Vì đây là Kinh A-hàm của các Bộ Phái chứ không phải Kinh Nikaya Nguyên thuỷ nên thầy chỉ đoán rằng Hữu hành Niết-bàn là Niết-bàn còn tập khí (sankhàra) của bậc Hữu Học, Vô hành Niết-bàn là Niết-bàn không còn tập khí của bậc Vô Học, Tổn hại Niết-bàn là Niết-bàn của các bậc Hữu học còn phải trải qua thời gian để diệt dần (tổn hại) các kiết sử mới chứng được Niết-bàn hoàn toàn. Trung gian Niết-bàn là Niết-bàn của các vị A-na-hàm sinh vào cõi trung gian là Sắc Cứu Cánh Thiên rồi ở đó đắc quả A-la-hán và nhập Niết bàn luôn… 
Theo thầy khi đọc Kinh điều nào không hiểu nên bỏ qua một bên để đọc tiếp, về sau khi nào đủ duyên sẽ hiểu chứ đừng cố gắng giải đoán để cho lý trí vọng thức xen vào. Điều nào hiểu được tức mình đã trải nghiệm, đã thấy ra trong thực tế đời sống.

Trích ghi từ Trà Đạo Bửu Long ngày 23 tháng 8 năm 2016